Trong cuốn sách Tương lai của Quản lý Đầu tư,.ông Ronald N. Kahn – giám đốc điều hành và là người đứng đầu toàn cầu.của Bộ phận Nghiên cứu Hệ thống Tài sản ròng tại BlackRock –.đã nhấn mạnh về các biến đổi quan trọng trong ngành quản lý đầu tư. Những điều này đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi ngành tài chính trong vài thập kỷ qua.
Một lần nữa, tại Hội nghị Thường niên Lần thứ 72.của Viện CFA do Hiệp hội CFA của Vương quốc Anh tổ chức,.ông Kahn lại tiếp tục xoáy sâu vào vấn đề này. Ông phát biểu: “Trong quản lý đầu tư, những gì chúng ta làm hôm nay,.dù là những chi tiết nhỏ nhất đều hoàn toàn khác với những gì chúng ta đã làm cách đây 20 năm.”
Dựa trên việc xem xét cách ngành công nghiệp Quản lý Đầu tư đã phát triển trong những năm qua và thông qua khảo sát toàn cảnh, ông đã tìm cách trả lời hai câu hỏi:
“Trong quản lý đầu tư, điều gì đã thay đổi?
Và chúng ta nên thay đổi như thế nào?”
Từ đây, ông đã nêu bật 7 xu hướng thay đổi của ngành công nghiệp này. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh: big data và smart beta sẽ có tác động mạnh mẽ đến ngành quản lý đầu tư trong tương lai. “Smart beta là một bước ngoặt. Big data là cơ hội lớn để quản lý hiệu quả hơn” – ông nói.
Theo cách ông Kahn nhìn nhận, quản lý đầu tư đang phát triển thành ba nhánh riêng biệt: lập chỉ mục, smart beta/yếu tố đầu tư và alpha thuần túy. Trong 3 nhánh trên, mỗi nhánh đều tập trung vào lợi nhuận và tính bền vững.
Và để hiểu sâu hơn về từng xu hướng mới trong ngành quản lý đầu tư, mời bạn cùng BitcoinVN News tìm hiểu ở phần bên dưới nhé.
1. Xu hướng quản lý đầu tư thứ nhất: Chuyển đổi từ Chủ động sang Thụ động
Sự chuyển đổi từ quỹ chủ động sang thụ động hoặc quỹ chỉ số theo tỷ lệ 1:1 là một vấn đề to lớn và quan trọng nhưng hầu hết mọi người đều cố tình né tránh.
“Đây chắc chắn là một tin xấu đối với những nhà quản lý chủ động. Dĩ nhiên, tin tức này không phải mới xuất hiện một vài ngày gần đây. Mà đó là một hiện tượng đã diễn ra ít nhất 10 năm qua”. Ông Kahn nhấn mạnh.
*** Nhà quản lý chủ động là một người hoặc một nhóm người chủ động quản lý danh mục đầu tư của quỹ. Những nhà quản lý chủ động này kiếm lời bằng cách: dựa vào các dữ liệu phân tích, đánh giá, dự báo và kinh nghiệm của mình để tìm ra các cổ phiếu bị định giá sai. Sau đó căn cứ vào sự định giá sai lệch này, họ dễ dàng đưa ra các quyết định đầu tư như mua, nắm giữ, hoặc bán chứng khoán… lý tưởng nhất.
Không khó để giải thích tại sao hiện nay, các bản tóm tắt với nội dung chống lại việc quản lý chủ động lại càng ngày càng mở rộng và được sao lưu với nhiều dữ liệu phong phú đến thế. Bởi vì dù tài chính hành vi và sự biến động vượt mức cho thấy hoạt động quản lý chủ động có thể mang lại hiệu quả tốt. Tuy nhiên chúng chỉ có xu hướng tồn tại trong ngắn hạn.
Như đã nói, các nhà quản lý chủ động kiếm lời bằng cách: xác định thị trường đang kém hiệu quả ở chỗ nào, cổ phiếu nào đang bị định giá sai. Sau đó, họ tận dụng sự thiếu hiệu quả này để giao dịch và kiếm lời. Ông Kahn gọi cách kiếm tiền này là “nguồn lợi nhuận hẹp và nhất thời”. Đến một lúc nào đó, khi thị trường được giáo dục đầy đủ, nhà đầu tư hiểu tường tận về các thông tin, cổ phiếu được định giá đúng thì cách kiếm tiền chủ động này sẽ “không còn đất sống”.
Vì vậy, các nhà quản lý chủ động muốn hoạt động trong một thời gian dài, họ buộc phải tiếp tục tìm ra những sự thiếu sót, những thông tin thiếu hoàn hảo từ thị trường. Nếu họ không tìm ra điều này thì sau khi trừ các chi phí và lệ phí, khoản tiền họ thu lại sẽ dưới mức trung bình.
“Chúng tôi kỳ vọng những người quản lý chủ động sẽ hoạt động kém hiệu quả hơn”. Kahn nói.
2. Gia tăng sự cạnh tranh giữa các nhà quản lý chủ động
Đây là một tin xấu khác mà các nhà quản lý chủ động cần lưu ý. Cạnh tranh gia tăng có nghĩa là thị trường càng hiểu biết hơn, các thông tin kém hiệu quả dần giảm đi. Và nếu các nhà quản lý không phát hiện được những “lỗ hổng thị trường” thì họ rất dễ bị “đuối sức”.
Dựa trên trích dẫn trong một bài báo của R. David McLean và Jeffrey Pontiff, Ông Kahn đặt ra nghi vấn: “Liệu nghiên cứu học thuật có phá hủy khả năng dự đoán của thị trường chứng khoán hay không?”
Câu trả lời là: khi các nhà nghiên cứu phát hiện ra sự kém hiệu quả của thị trường, sau đó công bố chúng và tiến hành giao dịch để kiếm lời thì sau một thời gian, khoản lợi nhuận này sẽ giảm dần và biến mất. Bởi vì nếu các công ty lượng tử thường xuyên bán email có chứa kết quả nghiên cứu về những lỗ hổng của thị trường cho người dùng thì mọi người đều dễ dàng truy cập. Từ đó họ học hỏi nhiều hơn, hiểu rõ hơn về thị trường, nắm rõ các thông tin hơn…
Điều này có nghĩa là các nhà quản lý chủ động sẽ không còn có thể khai thác những thông tin kém hiệu quả này để kiếm lời nữa. Và như vậy, công việc quản lý đầu tư của các nhà quản lý chủ động sẽ càng ngày càng khó khăn hơn.
“Một điều mà chúng tôi biết chắc chắn là: ý tưởng đầu tư tuyệt vời tiếp theo sẽ không đến từ các thông tin nghiên cứu học thuật đăng trên Mạng Nghiên cứu Khoa học Xã hội (Social Science Research Network – viết tắt là SSRN).
3. Thay đổi môi trường thị trường
“Trong cuốn sách Flash Boys , tác giả Michael Lewis đã sai. Giao dịch tần suất cao (HFT) – và các diễn biến thị trường tương tự không hoàn toàn là thảm họa đối với các nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức… như Lewis đã mô tả”- Ông Kahn nhấn mạnh.
*** Giao dịch tần suất cao (HFT) là phương pháp giao dịch sử dụng hệ thống máy tính mạnh mẽ để thực hiện nhiều giao dịch cùng lúc với tốc độ chưa tới 1 giây. Trong giao dịch tần suất cao, những thuật toán phức tạp sẽ thay bạn làm nhiệm vụ phân tích nhiều thị trường cùng lúc và lệnh sẽ được thực hiện tùy theo điều kiện của thị trường. Nhờ ưu điểm thực hiện lệnh giao dịch nhanh nên HFT giúp các nhà giao dịch dễ sinh lời hơn những nhà giao dịch thực hiện lệnh bằng hình thức thủ công. Và chính tốc độ thực hiện lệnh mạnh mẽ của máy móc hiện đại đã khiến Michael Lewis đặt ra vấn đề: có chăng HFT đang tạo ra sự bất bình đẳng đối với các nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức… Tuy nhiên, ông Kahn đã lật ngược vấn đề và cho rằng Michael Lewis đã sai).
Những sự thay đổi như giao dịch tần suất cao và các thay đổi tương tự có điểm tốt và cũng có thách thức đối với quản lý chủ động.
“Mặt tốt là đầu tư chuyển từ trạng thái chủ động sang chỉ số (phía bên kia của giao dịch có khả năng là một quỹ chỉ số). Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư chủ động sẽ cạnh tranh chủ yếu với các chỉ mục không được thông tin” – Ông Kahn nói.
“Thách thức là không ai biết những người nắm giữ các chỉ mục là ai. Và những người ở phía bên kia luôn cố gắng làm những điều tốt nhất, có thể tốt hơn so với các nhà đầu tư chủ động bên này”. Ông Kahn nói.
4. Big data phát triển vượt bậc
“Nếu hỏi đâu là tin tức tuyệt vời cho việc phát triển quản lý đầu tư chủ động thì câu trả lời chính là big data”. Ông Kahn khẳng định.
Nhờ sự thúc đẩy của internet, cuộc cách mạng dữ liệu đã rút ngắn khoảng cách thông tin trong đầu tư. Giờ đây, bất kỳ ai có kết nối internet đều có thể truy cập tất cả các dữ liệu quan trọng, kể cả những dữ liệu từng là mục tiêu của các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Đồng thời, những phát triển của big data đã gia tăng số lượng cũng như khối lượng thông tin mới và hữu ích. Dù các định nghĩa về big data có thay đổi nhưng Kahn nói rằng: “nó luôn có xu hướng gia tăng về khối lượng, tần suất và các dấu vết kỹ thuật số về hành vi của người dùng cũng được tiết lộ một cách chi tiết hơn. Big data có nhiều dạng khác nhau. Bao gồm: văn bản, dữ liệu tìm kiếm, mạng xã hội, hình ảnh và video,…Chúng có thể cung cấp cho nhà đầu tư góc nhìn toàn cảnh và sâu sắc về sự kém hiệu quả của thị trường đang tạo alpha hoặc các chỉ số tiềm năng dẫn dắt họ nắm bắt được tâm lý của người tiêu dùng.
Kahn nói: “Sự bùng nổ dữ liệu có sẵn này cùng với sự phát triển về khả năng phân tích của máy học là cơ hội mới và đầy tiềm năng cho việc quản lý chủ động trong nhiều năm sau”.
5. Sự bứt phá của Smart Beta
Bên cạnh những tiềm năng to lớn mà big data mang lại thì sức mạnh bứt phá của phiên bản Smart Beta cũng là một điều đáng quan tâm.
“Smart Beta không phải là một sự đổi mới về đầu tư. Mà đó là sự đổi mới về mặt sản phẩm dựa trên các nghiên cứu về lợi ích của các sản phẩm được lập chỉ mục” – Ông Kahn nhấn mạnh.
Những chiến lược như Smart Beta là những nỗ lực thể hiện tính minh bạch và dựa trên các quy tắc nhất định để vượt trội hơn so với thị trường. Vốn hóa nhỏ, động lực, giá trị, tăng trưởng…- tất cả những yếu tố thuộc hình thức đầu tư chủ động trước đây đã được smart beta hệ thống hóa và được lập chỉ mục hiệu quả.
“Không có ý tưởng nào trong số này là những ý tưởng mới. Smart beta đã lấy những ‘thông tin đắt giá của thị trường’ mà quản lý chủ động phát hiện thành công, sau đó bán các thông tin này cho nhà đầu tư với mức giá rẻ”. Ông Kahn nói về quy cách kiếm tiền từ smart beta.
Vậy cụ thể, lợi nhuận thu được từ phiên bản smart beta là bao nhiêu?” -“Trung bình, chúng chiếm 35% lợi nhuận hoạt động.”- Ông Kahn chia sẻ thêm.
Như vậy, nếu bạn là một nhà quản lý đầu tư và đang phân phối lợi nhuận từ smart beta,. bạn không bị tính phí hoạt động.
Lúc này đây, câu hỏi đặt ra là: Khi smart beta hoạt động với phí quản lý thấp.thì alpha thuần túy với mức phía quản lý cao có còn cơ hội để tồn tại hay không?
“Dĩ nhiên là có! bất cứ nhà đầu tư nào cũng muốn có được nhiều khoản lợi nhuận nhất có thể. Cho dù đó là tài trợ của trường đại học hay quỹ hưu trí. Nhà đầu tư muốn lợi nhuận từ việc lập chỉ mục. Họ muốn kiếm lời từ phiên bản beta thông minh. Và họ cũng muốn lợi nhuận từ alpha thuần túy. Và họ chỉ có thể nhận được alpha thuần túy từ những người quản lý chủ động. Chính vì vậy, việc tạo ra alpha thuần túy trở thành trọng tâm.của việc quản lý chủ động trong tương lai”.
6. Đầu tư vượt ra ngoài lợi nhuận
Gần đây, tiêu chuẩn ESG và tính bền vững đã thu hút.nhiều sự quan tâm ở châu Âu và ngày càng tăng ở Hoa Kỳ cùng châu Á.
*** ESG là viết tắt của Environmental, Social and Governance Criteria. Đây là tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị được các nhà đầu tư sử dụng.để đánh giá và tìm kiếm các khoản đầu tư tiềm năng. Trong đó, tiêu chuẩn môi trường giúp nhà đầu tư xem xét công ty nào đó.đang tác động tới tự nhiên như thế nào (bao gồm việc xử lý khí thải, xử lý rác thải,. các hoạt động sử dụng bao bì thân thiện môi trường,…). Tiêu chuẩn xã hội cho thấy cách mà công ty đó quản lý và xây dựng mối quan hệ.với đối tác, khách hàng, nhân viên, và cộng đồng nơi công ty đó hoạt động… Còn tiêu chuẩn quản trị tập trung phản ánh sự lãnh đạo của công ty,.các chế độ lương thưởng của nhân sự điều hành, kiểm toán, kiểm soát nội bộ.và các quyền lợi của cổ đông.
Ông Kahn mô tả đây là xu hướng “Đầu tư vượt ra ngoài lợi nhuận”. Nó không hoàn toàn là khoản đầu tư chú trọng về rủi ro về lợi nhuận. Mà chúng là một khoản đầu tư mang lại nhiều giá trị to lớn hơn, mang tính dài hạn hơn.
“Tất cả chúng ta đều muốn danh mục đầu tư của mình phản ánh các lợi ích cụ thể. về môi trường, chính sách xã hội và quản trị (ESG) mà chúng ta nhận được. Và rất khó có một danh mục nào thỏa mãn toàn bộ các tiêu chí khắt khe này”.
Tuy nhiên ông Kahn vẫn luôn tin rằng: ESG có thể giúp các nhà đầu tư. tìm kiếm lợi nhuận dài hạn một cách chắc chắn hơn là lợi nhuận chủ động.
Ông nói: “Có một loạt các khoản đầu tư ESG khá đơn giản.và đáp ứng một số tiêu chí của nhà đầu tư như:.không có thuốc lá, dầu mỏ, quốc phòng quân sự… Những cổ phiếu của các công ty thỏa mãn các tiêu chí này.dễ dàng giúp bạn thêm vào danh mục đầu tư của mình.
Tuy nhiên, có một điểm khá phức tạp mà nhà đầu tư cần nhìn rõ. Đó là đa phần, các công thường báo cáo điểm ESG để phản ánh các chính sách.của công ty trên giấy tờ hơn là những điều diễn ra trong thực tế.
“Lúc này, ESG và big data dễ chồng chéo lên nhau. Chúng ta có thể đo lường hiệu quả hoạt động thực tế của công ty so. với lý thuyết mà họ khoe mẽ. Tuy nhiên, công việc này diễn ra khá phức tạp và hơi lộn xộn. Từ đây, vấn đề đặt ra là: việc đo lường điểm ESG thực tế đang diễn ra một cách rối rắm.trong khi đó, nhà đầu tư đang rất cần tìm các công ty có điểm ESG rõ ràng. Đây chính là cơ hội để quản lý chủ động vào cuộc”. Chính các nhà quản lý chủ động sẽ là người phát hiện ra các thiếu sót.của điểm ESG thực tế so với ESG trên giấy tờ… Từ đó cung cấp cho nhà đầu tư một cái nhìn xác đáng nhất.
Ngoài ra, còn có nhiều cơ hội để tùy chỉnh điểm ESG. Bởi việc đánh giá và cho điểm ESG dựa trên cảm nhận chủ quan của từng nhà đầu tư. Một công ty có chính sách đảm bảo công bằng xã hội.có thể không nhận được điểm đánh giá ESG cao từ các nhà đầu tư yêu môi trường. Nhưng ngược lại, điểm công bằng xã hội của công ty đó lại dễ dàng.“lọt vào mắt xanh” của các nhà đầu tư hướng đến sự bình đẳng xã hội…
Và thực tế, khi đầu tư vượt ra ngoài lợi nhuận,.nhà đầu tư không còn quan trọng đến việc khoản đầu tư có sinh lợi cao hơn hay không. Mà cái họ chú ý đến là khoản đầu tư của mình. có thể mang lại những giá trị lớn lao nào cho cộng đồng.và chúng sẽ mở ra điều gì cho tương lai về sau.
“Tôi nghĩ đây là khoản đầu tư xứng đáng để mình ở lại,” Kahn nói.
7. Giảm phí quản lý đầu tư
Với tất cả những khó khăn này, phí quản lý đầu tư đã giảm xuống,.kể cả phí quản lý danh mục sản phẩm.
Và một lĩnh vực mà Kahn dự kiến sẽ tiếp tục giảm.là thu nhập cố định của quản lý chủ động.
Tương lai
Quản lý chủ động đang phát triển thành smart beta dựa trên phần thưởng rủi ro.giống như lập chỉ mục; cung cấp sự minh bạch với giá rẻ và đáng tin cậy nhất có thể; và đầu tư alpha thuần túy dựa trên sự thiếu hiệu quả về mặt thông tin.
Theo Kahn, những thông tin kém hiệu quả này là “hiếm,.có giá trị và không phải ai cũng có thể nắm bắt”. Tuy nhiên, các thông tin ấy không được phản ánh trong các dữ liệu thông thường. Mà chính big data sẽ giúp nhà đầu tư phát hiện ra chúng.
“Điều đó cho thấy big data không phải là liều thuốc chữa bách bệnh cho quản lý chủ động. Mà chúng còn hỗ trợ đắc lực cho các nhà đầu tư”.
Big data không phải là một bánh lới quảng cáo. Và chúng cũng không phải là sự đảm bảo cho sự thành công mãi mãi của quản lý chủ động”.
Nguồn: Bài viết gốc mang tên: Seven Trends in Investment Management: Ronald N. Kahn được viết bởi tác giả Paul McCaffrey. Bản dịch được thực hiện bởi Bitcoinvn News